chứng khoán
thông tin thương mại
- TỶ GIÁ NGOẠI TỆ
- TỶ GIÁ VÀNG
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THANH TRA THUẾ GÓP PHẦN NÂNG CAO NĂNG LỰC THANH TRA THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
2:45 | 10/09/2013
Ngân sách nhà nước có vai trò rất quan trọng trong toàn bộ hoạt động kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của đất nước. Ngân sách nhà nước (NSNN) là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Thu ngân sách nhà nước bao gồm các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí,...Trong đó, Thuế đóng vai trò rất quan trọng trong nguồn thu ngân sách nhà nước.
Ngân sách nhà nước có vai trò rất quan trọng trong toàn bộ hoạt động kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của đất nước. Ngân sách nhà nước (NSNN) là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Thu ngân sách nhà nước bao gồm các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí,...Trong đó, Thuế đóng vai trò rất quan trọng trong nguồn thu ngân sách nhà nước. Mỗi một loại thuế mà nhà nước ban hành đều nhằm vào mục đích là tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường vai trò này của thuế càng nổi bật bởi thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Vì vậy, nâng cao hiệu quả thanh tra thuế sẽ góp phần nâng cao năng lực thanh tra thu ngân sách nhà nước.
Thực tế, trong những năm qua, thu ngân sách Nhà nước luôn hoàn thành vượt mức dự toán giao, đóng góp tích cực vào việc thực hiện các chính sách cân đối vĩ mô, phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng và giải quyết các vấn đề an sinh xã hội. Tuy nhiên, ý thức chấp hành pháp luật về thuế của một bộ phận người nộp thuế cũng còn hạn chế; hiện tượng thất thu thuế, nợ đọng thuế, chiếm dụng tiền thuế tại một số lĩnh vực, ngành, địa phương vẫn còn xảy ra; sự phối hợp của các ngành, các cấp với cơ quan Thuế trong công tác quản lý thuế, tuyên truyền pháp luật thuế, xử lý các vi phạm pháp luật về thuế..., có lúc, có nơi chưa thường xuyên, chặt chẽ, làm giảm hiệu quả của công tác quản lý thuế; một số địa phương chưa quan tâm quản lý, khai thác nguồn thu từ tài nguyên môi trường, đất đai, khoáng sản,...; tình trạng chuyển giá làm giảm các nghĩa vụ đối với Ngân sách nhà nước; tình trạng đầu cơ, buôn lậu, gian lận thương mại, trốn thuế, lậu thuế vẫn còn xẩy ra dưới nhiều hình thức tinh vi và ngày càng phức tạp. Để khắc phục tình trạng thất thu thuế làm ảnh hướng đến nguồn thu ngân sách, thiết nghĩ cần có giải pháp nâng cao hiệu quả thanh tra thuế. Qua nghiên cứu, tham khảo một số công trình khoa học liên quan đến lĩnh vực thuế, tác giả đề xuất với các cơ quan thuế một số giải pháp cụ thể như sau:
- Thứ nhất, tập trung nâng cao chất lượng thanh tra, chuyên môn hóa bộ máy và cân đối nguồn lực thanh tra thuế:
Chất lượng thanh tra thuế luôn đi đôi với hiệu quả thanh tra thuế. Nếu thanh tra thuế có chất lượng thì cũng đồng thời đem lại hiệu quả thanh tra thuế cao và ngược lại. Chất lượng thanh tra không chỉ chú trọng vào sản phẩm đầu ra như hiệu quả thanh tra mà còn quan tâm đến các chỉ số đầu vào của thanh tra thuế. Một trong những cách tiếp cận chất lượng của thanh tra thuế được nhiều nước áp dụng hiện nay là tiếp cận quản lý chất lượng thanh tra toàn diện. Cách tiếp cận này đòi hỏi tổng hợp các kỹ năng quản lý hiện đại như: Lập kế hoạch thanh tra chiến lược, chuẩn hóa quy trình thanh tra, quản lý sự thay đổi, .…
Một trong những kỹ năng đáng chú ý nhất, đó là chuẩn hóa quy trình thanh tra thuế. Chuẩn hóa quy trình thanh tra thuế được hiểu là việc quy định trình tự các bước công việc của thanh tra thuế và phân công trách nhiệm thực hiện cụ thể các bước công việc của từng bộ phận, từng cán bộ tham gia quy trình. Chuẩn hóa quy trình thanh tra thuế là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, hàng đầu của cơ quan thuế (CQT) nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra thuế.
Qua thực tiễn cho thấy, quy trình thanh tra hiện nay vẫn còn một số hạn chế nhất định như: Tính tự động hóa chưa cao, nặng về xử lý thủ công, các bước công việc còn chủ yếu thực hiện trên giấy tờ hành chính, đôi khi gây chậm trễ, kéo dài thời gian thanh tra dẫn đến hiệu quả thanh tra còn hạn chế nhất định. Hơn nữa, tính liên kết, tập trung các bước của quy trình còn chưa thực sự đồng bộ, chặt chẽ, phân cấp trách nhiệm từng cán bộ, công chức và nhân viên trong quy trình còn chưa mạnh, chưa thực sự rõ ràng, thiếu tính kết nối thông tin,..
Muốn chuẩn hóa quy trình thanh tra thuế, cần đáp ứng được các yêu cầu sau đây: Phải phù hợp với các quy định của pháp luật, với chức năng, thẩm quyền của CQT; các bước thực hiện phải đơn giản, dễ thực hiện đối với cán bộ thuế và NNT; quá trình thực hiện tránh chồng chéo, hạn chế thủ tục rườm rà, tiết kiệm được công sức cho cán bộ thanh tra và NNT; ứng dụng công nghệ thông tin và hệ thống dữ liệu tập trung để hoàn thành công việc thanh tra một cách nhanh chóng, thuận tiện, hiệu quả.
Trong bối cảnh hiện nay, theo yêu cầu cải cách hành chính và hội nhập quốc tế, dưới áp lực của cơ chế thị trường (trong đó sức lao động là một loại hàng hóa đặc biệt) thì cán bộ thanh tra phải là người lao động chuyên nghiệp[1]. Vì thế, thanh tra thuế cũng cần phải tổ chức hoạt động theo hướng chuyên sâu, chuyên nghiệp; đồng thời, xây dựng tốt việc xác định vị trí việc làm[2] phù hợp với yêu cầu quản lý của ngành thuế và thực hiện nghiêm túc hoán đổi nhiệm vụ[3] tuỳ theo mục tiêu quản lý của CQT trong từng thời kỳ nhất định. Việc xây dựng cơ cấu tổ chức thanh tra thuế theo hướng chuyên môn hoá sẽ tạo điều kiện cho công chức, viên chức và nhân viên làm công tác thanh tra thuế có điều kiện nâng cao trình độ chuyên sâu về nghiệp vụ, giảm bớt sự chồng chéo trong hoạt động thanh tra, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả thanh tra thuế.
- Thứ hai, cần chú trọng công tác phân tích và dự báo nguồn thu thuế, tăng cường thanh tra tại trụ sở cơ quan thuế và chuyển hướng từ thanh tra toàn diện sang thanh tra chuyên ngành:
Dự báo số thu thuế là cần thiết nhằm định lượng được kết quả thanh tra thuế; từ đó, có thể cắt giảm một số khoản chi tiêu không cần thiết và xác định tương đối những biện pháp thu ngoài dự tính.
Thực trạng cho thấy, dự báo số thu trong thanh tra thuế ngày càng trở nên quan trọng vì sự trông đợi của khuôn khổ chi tiêu NSNN được dựa trên dự báo tính số thu thuế trung hạn. Đi đôi với dự báo số thu, là dự tính được mức chi phí sẽ chi ra để tiến hành hoạt động thanh tra thuế, từ đó xác định tính hiệu quả của hoạt động thanh tra thuế. Việc phân tích, dự báo các dạng, hành vi gian lận, trốn thuế trong tương lai là rất quan trọng trong hoạt động thanh tra. Công tác cảnh báo, ngăn ngừa từ xa các hành vi vi phạm sẽ giúp cho việc thanh tra chống thất thu thuế đạt hiệu quả, giúp CQT chủ động trong phòng chống, phát hiện nhanh các hành vi gian lận. Mặt khác, việc cảnh báo ngăn ngừa từ xa các vi phạm sẽ giúp NNT chủ động tránh các vi phạm khi đã được cảnh báo các thiệt hại có thể xảy ra khi không tuân thủ pháp luật thuế, nhờ vậy mà hiệu quả thanh tra thuế sẽ được nâng lên rõ rệt. Đồng thời, giúp người nộp thuế tuân thủ nghĩa vụ thuế tốt hơn.
Qua nghiên cứu thực tiễn cho thấy, việc áp dụng hình thức thanh tra thuế tại trụ sở CQT có nhiều ưu điểm như: Ít tốn kém nhân lực và chi phí hơn; tra cứu thông tin để phục vụ cho công tác chuyên môn được kịp thời; tạo tâm lý tốt cho NNT khi đến làm việc,....Một ưu điểm khác, khi tiến hành thực hiện thanh tra thuế tại CQT sẽ giảm phiền hà cho NNT, tránh những khoản chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra khi tiếp đón đoàn thanh tra làm việc, đồng thời không làm gián đoạn hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường của NNT. Mặt khác, việc chuyển đổi hình thức thanh tra tại cơ sở NNT sang CQT cũng phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế; theo thống kê các nước phát triển trên thế giới chủ yếu áp dụng loại hình thanh tra tại trụ sở CQT.
Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn - kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực đó[4]. Theo đó, nên tập trung vào các ngành, lĩnh vực khai thác nguồn thu cao hiện nay như: Dược phẩm, dịch vụ du lịch, dịch vụ quảng cáo trên truyền hình, kinh doanh vàng bạc, bất động sản, điện lực, dầu khí, bưu chính viễn thông, khoáng sản, kinh doanh trực tuyến, trò chơi điện tử, kinh doanh thiết bị y tế, bệnh viện, trường học,…Việc chuyển hướng từ thanh tra toàn diện sang thanh tra chuyên ngành sẽ đạt hiệu quả cao, giảm thiểu chi phí và thủ tục hành chính cho NNT.
- Thứ ba, cần xây dựng và áp dụng hệ thống tiêu chí đánh giá hiệu quả thanh tra thuế và xây dựng cơ sở dữ liệu tập trung về người nộp thuế từ Trung ương đến các địa phương một cách khoa học:
Để xác định được thanh tra thuế có hiệu quả hay không thì cần phải áp dụng các tiêu chí đánh giá hiệu quả về mặt định lượng và định tính. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả là thước đo, là chuẩn mực để đánh giá tác dụng, hiệu quả thanh tra thuế. Thực tế trong thời gian qua, việc chưa áp dụng các tiêu chí hiệu quả vào đánh giá hoạt động thanh tra đã phần nào chưa làm rõ được những ưu điểm và hạn chế của thanh tra thuế; do đó, cần thiết phải chọn lọc và áp dụng các tiêu chí đánh giá hiệu quả (cả định lượng và định tính) trong đánh giá hoạt động thanh tra của CQT các cấp trong từng thời kỳ và theo yêu cầu của công tác quản lý thuế.
* Về các tiêu chí định lượng: Hiện tại, vẫn chưa có hệ thống tiêu chí đánh giá hiệu quả thanh tra được công nhận. Tuy nhiên, có thể ứng dụng hệ thống 11 tiêu chí của TS.Nguyễn Xuân Thành để tham khảo (11 tiêu chí đó là: Tỷ lệ NNT được thanh tra trong tổng số NNT đang hoạt động; tỷ lệ hoàn thành kế hoạch số lượng NNT được thanh tra; số thuế truy thu bình quân; tỷ lệ số thuế truy thu trên tổng thu ngân sách nhà nước (NSNN); tỷ lệ nợ đọng sau thanh tra; số lỗ sai bình quân bị loại qua thanh tra; số thuế ưu đãi (miễn, giảm) bình quân bị loại qua thanh tra; chi phí thanh tra bình quân; tỷ lệ chi phí trên số thuế truy thu; thời gian thanh tra bình quân và tỷ lệ hoàn thành kế hoạch về thời gian thanh tra).
* Về các tiêu chí định tính: Tương tự như tiêu chí định lượng, hiện vẫn chưa có hệ thống tiêu chí khoa học để áp dụng vào việc đánh giá hiệu quả công tác thanh tra thuế nhưng cũng có thể áp dụng hệ thống 05 tiêu chí của TS.Nguyễn Xuân Thành để tham khảo (05 tiêu chí đó là: Tính chất nghiêm trọng của các hành vi, sai phạm của NNT phát hiện qua thanh tra; mức độ tuân thủ các quyết định thanh tra, kết luận thanh tra của NNT; xu hướng thay đổi (tăng, giảm) các hành vi vi phạm sau thanh tra; xu hướng thay đổi (tăng, giảm) NNT tái phạm sau thanh tra; sự biến chuyển ý thức tự tuân thủ nghĩa vụ thuế của NNT).
Hiện tại, CQT đã xây dựng hệ thống kê khai thuế trực tuyến, có thể xem đây là bước tiến lớn của ngành thuế. Tuy nhiên, cần xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu tập trung của CQT với các thông tin cơ bản như: đặc điểm, quy mô, cơ cấu tổ chức của NNT, tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình kê khai, nộp thuế, lịch sử hành vi vi phạm pháp luật của NNT, thông tin khác liên quan đến NNT có từ bên thứ ba như ngân hàng, khách hàng của NNT,…Trên cơ sở thông tin thu thập được sẽ tạo điều kiện thuận lợi để bộ phận thanh tra thuế phân tích NNT theo mức độ rủi ro về thuế.
Để thực hiện có hiệu quả các giải pháp trên, cơ quan thanh tra thuế cần có (hoặc trang bị) một số điều kiện sau đây:
- Thứ nhất, cần trao thêm thẩm quyền cho cơ quan thanh tra thuế, đó là trao chức năng điều tra cho thanh tra thuế để nâng cao hiệu lực của quyết định thanh tra thuế:
Thực tế cho thấy, khi phát hiện một số sai phạm của doanh nghiệp như: Cố tình trốn thuế, gian lận thuế, chiếm đoạt tiền thuế,...do một đơn vị, cá nhân mà móc nối nhiều tổ chức, cá nhân, ở các địa phương trong phạm vi một nước, thậm chí liên quan đến nhiều quốc gia. Nhưng các cơ quan quản lý nhà nước về thuế chưa có biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật trên. Có thể nói, điều tra thuế là biên pháp nhằm phát hiện kịp thời các hành vi trốn thuế, chiếm đoạt tiền thuế,...để thu đủ tiền thuế nộp vào NSNN, bảo đảm chống thất thu NSNN có hiệu quả. Đồng thời, việc bổ sung thêm thẩm quyền điều tra cho cơ quan thanh tra thuế cũng phù hợp với thông lệ quốc tế, đang được nhiều nước áp dụng.
Hiện tại, chưa có khái niệm điều tra thuế; vì thế, nên hiểu điều tra vi phạm pháp luật về thuế thuộc chức năng nhiệm vụ của ngành thuế và hải quan là điều tra hành chính chứ không phải điều tra hình sự. Trong những trường hợp có hiện tượng gian lận, trốn thuế với quy mô lớn, có ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính tuân thủ pháp luật thuế, có liên quan đến nhiều đối tượng nộp thuế trong và ngoài nước thì đòi hỏi phải thực hiện công tác điều tra thuế nhằm phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm khắc các hành vi vi phạm. Do CQT có nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, phẩm chất đạo đức tốt và có thể tiếp nhận nhiệm vụ điều tra nếu được đào tạo thêm nên ngành thuế hoàn toàn có thể đảm nhiệm chức năng điều tra thuế. Hiện nay đội ngũ CBTT có chuyên môn nghiệp vụ về thuế, kế toán, tài chính, luật đủ điều kiện để có thể thực hiện chức năng điều tra thuế. Do đó, việc trao quyền điều tra, khởi tố các vụ vi phạm về thuế cho CQT là cần thiết, để đảm bảo việc đấu tranh, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật thuế kịp thời và hiệu quả.
- Thứ hai, nâng cao hiệu quả ứng dụng, đầu tư xây dựng và phát triển hạ tầng công nghệ thông tin cho thanh tra thuế:
Để nâng cao hiệu quả thanh tra thuế, ngành thuế cần tiếp tục hoàn thiện và phát triển các ứng dụng tin học, tạo điều kiện cho CBTT có thể khai thác thông tin về NNT một cách dễ dàng và thuận lợi hơn. Các ứng dụng tin học hỗ trợ cần xây dựng theo kiến trúc tin học dạng mở; tức hệ thống tin học cung cấp cơ sở dữ liệu tích hợp và các ứng dụng cơ bản làm công cụ tính toán và phân tích dữ liệu. Các ứng dụng hỗ trợ đều được xây dựng dựa trên yêu cầu nghiệp vụ và kỹ thuật thanh tra, kiểm tra.
Hiện nay một số doanh nghiệp lớn hầu hết áp dụng công nghệ thông tin ở mức cao trong quản lý và hạch toán kế toán, nếu các doanh nghiệp này cố tình gian lận thì để đối phó, bộ phận thanh tra thuế cần phải biên chế một số chuyên gia tin học giỏi, chuyên thanh tra trên phần mềm để có thể hỗ trợ thanh tra các loại hình doanh nghiệp này. Nhờ ứng dụng công nghệ thông tin, CBTT có thể truy cập vào dữ liệu của NNT bao gồm các loại tờ khai, lần khai bổ sung, số lần không kê khai, số lần nộp chậm, lỗi kê khai sai, các vi phạm hành chính, bị truy thu…để CBTT có thể khai thác, nắm bắt được tình hình vi phạm kê khai, có dấu hiệu bất thường trong kê khai, nộp thuế của NNT.
Bên cạnh việc nâng cao hiệu quả ứng dụng công nghệ thông tin, việc đầu tư vào hạ tầng công nghệ thông tin là hết sức cần thiết để góp phần nâng cao hiệu quả thanh tra thuế. Cụ thể là:
+ Bổ sung, sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật về kế toán điện tử, chứng từ điện tử, về trách nhiệm cung cấp dữ liệu điện tử của NNT cho CQT tại quy chế trao đổi thông tin, dữ liệu giữa các cơ quan thuộc và trực thuộc Chính phủ, nhất là các cơ quan quản lý liên quan đến thanh tra thuế.
+ Thiết lập hệ thống kết nối giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan như hải quan, cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan thống kê, ngân hàng, NNT..., thiết lập cổng giao dịch điện tử giữa Việt Nam và các quốc gia, giữa các nước trong khu vực và trên thế giới.
+ Thiết lập hệ thống mạng trao đổi thông tin với bên ngoài: Để có kết quả phân tích rủi ro chính xác về tình trạng tuân thủ của NNT, CQT phải có đầy đủ thông tin. Ngoài những thông tin do NNT cung cấp, thông tin do bản thân ngành thuế thu thập thì trong quá trình quản lý còn phải truy cập, tham chiếu với các thông tin khác có liên quan đến NNT do các cơ quan, tổ chức chuyên ngành nắm giữ. Vì vậy, CQT phải thiết lập hệ thống mạng trao đổi thông tin để thu thập, trao đổi và tích hợp thông tin với các ngành liên quan như: Giữa CQT, Sở Tài chính, Kho bạc Nhà nước, Hải quan, cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan chủ quản của NNT, Tổng cục Thống kê, ngành bảo hiểm xã hội, tài nguyên và môi trường, văn hóa thông tin, giáo dục đào tạo... để đối chiếu với các tiêu chí kê khai của NNT đối với một số sắc thuế như: Thuế TNCN, thuế TNDN,...
- Thứ ba, đẩy mạnh tuyên truyền hỗ trợ người nộp thuế và tư vấn thuế:
Công tác tuyên truyền hỗ trợ NNT cần được tăng cường để nâng cao hơn nữa nhận thức cũng như giải đáp được những vướng mắc của NNT trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế của mình, tránh việc vi phạm pháp luật thuế do sai sót không cố ý gây ra. Ngành thuế cần thay đổi quan điểm quản lý, coi NNT là khách hàng của mình để phục vụ. Việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT có tác dụng giúp NNT hiểu được các loại thuế cần phải nộp, cách tính số thuế phải nộp, thời hạn kê khai, nộp thuế và tự động chấp hành nghĩa vụ thuế. Nhờ đó, CQT tiết kiệm thời gian và nhân lực để thanh tra các trường hợp cố tình kê khai sai, khai thiếu.
Bên cạnh công tác tuyên truyền, cần đầy mạnh công tác tư vấn thuế, vì tư vấn thuế tốt sẽ giúp cho NNT kê khai, nộp thuế bài bản và chuyên nghiệp hơn, tuân thủ pháp luật tốt hơn, tình trạng vi phạm pháp luật về thuế, nợ thuế, gian lận về thuế hoặc trốn thuế của NNT sẽ giảm bớt.
Tài liệu tham khảo:
[1] Sách “Xây dựng văn hóa thanh tra và chuẩn mực đạo đức cán bộ thanh tra” do đồng chí Trần Văn Truyền, nguyên Tổng Thanh tra Chính phủ chủ biên;
[2] Nghị định số 36/2013/NĐ-CP và Thông tư hướng dẫn thực hiện về việc xác định vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công chức;
[3] Nghị định số 158/2007/NĐ-CP ngày 27/10/2007 của Chính phủ quy định danh mục các vị trí công tác và thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức;
[4] Theo quy định tại Điều 3 Luật Thanh tra năm 2010.
ThS. Lê Quang Kiệm
Thanh tra tỉnh Đồng Nai